Thành phố Cần Thơ, kết quả đạt được sau 01 năm thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ
Để tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện công tác cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong công tác cải cách thủ tục hành chính
Trên cơ sở đó, Thành phố Cần Thơ đã cụ thể hóa Chỉ đạo bằng Kế hoạch số 94/KH-UBND được ban hành ngày 24/8/2015 triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg. Đồng thời, ngày 21 tháng 9 năm 2015, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố tiếp tục ban hành Công văn số 4450/UBND-NCPC nhằm đôn đốc Thủ trưởng cơ quan ban, ngành và Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, xã, phường, thị trấn trong việc triển khai thực hiện Kế hoạch số 94/KH-UBND.
Sau 1 năm triển khai thực hiện, thành phố đã đạt được 1 số kết quả nội bật như:
Chỉ số giảm thời gian nộp thuế đã giảm được 50 giờ, từ 167 giờ/năm xuống còn 117 giờ/năm, ngắn hơn yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ; tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2016, có 100% doanh nghiệp có mã số thuế 10 số đang hoạt động thực hiện kê khai thuế điện tử; có 97% doanh nghiệp thực hiện nộp thuế điện tử, bước đầu đã đáp ứng được một trong những mục tiêu quan trọng trong công tác cải cách hành chính và hiện đại hóa ngành, giảm chi phí thời gian, tuân thủ pháp luật thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp;
Tổ chức thí điểm mô hình hệ thống truy cập mạng không dây công cộng (wifi) miễn phí để phục vụ doanh nghiệp, người dân và du khách tại 27 điểm (chủ yếu tại quận Ninh Kiều) trên địa bàn thành phố Cần Thơ
Công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực Hải quan được đẩy mạnh, trong đó trọng tâm là “Giảm thời gian thông quan cho hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu từ việc kê khai hải quan điện tử qua hệ thống VNACCS/VCIS”; thực hiện phương thức quản lý rủi ro trên cơ sở phân loại doanh nghiệp, phân loại người khai hải quan, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, tiến tới hệ thống một cửa liên thông quốc gia, sẵn sàng gia nhập ASEAN; thực hiện in tờ khai đến cửa khẩu để xuất hàng, tạo thuận lợi và giảm chi phí cho doanh nghiệp; tỷ lệ tờ khai xuất khẩu luồng vàng chiếm khoảng 34% trên tổng số tờ khai.
Thực hiện rà soát, cắt giảm từ 263 thủ tục hành chính xuống còn 115 thủ tục trong các lĩnh vực Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, chi trả chế độ Bảo hiểm xã hội…; thời gian nộp bảo hiểm xã hội giảm được 227 giờ, từ 335 giờ/năm xuống còn 108 giờ/năm; bãi bỏ nhiều văn bản không còn phù hợp; điều chỉnh, sửa đổi, bãi bỏ một số chỉ tiêu, nội dung nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các cơ quan, người lao động trong việc lập hồ sơ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế. Rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ hưu trí từ 20 ngày xuống còn 15 ngày làm việc; thanh toán hồ sơ ốm đau, thai sản…. từ 15 ngày xuống còn 10 ngày làm việc; cấp thẻ Bảo hiểm y tế 07 ngày làm việc theo quy định.
Bộ phận đăng ký doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, thời gian đăng ký thành lập, thay đổi đăng ký doanh nghiệp được rút ngắn từ 05 ngày xuống còn 03 ngày và thủ tục giải thể doanh nghiệp được rút ngắn từ 7 ngày xuống còn 5 ngày làm việc; rút ngắn thời gian “khởi sự doanh nghiệp” và “chi phí gia nhập thị trường”; 100% hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được số hóa và lưu tại Cơ sở dữ liệu quốc gia theo quy định;
Thời gian giải quyết cấp Giấy phép xây dựng được rút ngắn từ 30 ngày làm việc theo quy định xuống còn 16 ngày làm việc;
Sở Công Thương thực hiện rút ngắn thời gian tiếp cận điện năng theo yêu cầu của Nghị quyết số 19/NQ-CP; thỏa thuận vị trí cột/trạm điện và hành lang điện không quá 05 ngày làm việc (đối với trung áp treo), không quá 10 ngày làm việc (đối với trung áp ngầm); cấp phép xây dựng công trình điện không quá 07 ngày làm việc (đối với trung áp treo) và không quá 10 ngày (đối với trung áp ngầm); rút ngắn thời gian cấp C/O không quá 04 giờ làm việc đối với xuất khẩu bằng đường hàng không; không quá 08 giờ làm việc đối với xuất khẩu bằng các phương tiện khác.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: việc rà soát thủ tục hành chính tại địa phương được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định nhưng chưa được Bộ, cơ quan ngang Bộ xem xét, xử lý hoặc phản hồi; việc xây dựng, thực hiện các sáng kiến cải cách thủ tục hành chính hiện nay khó thực hiện. Nguyên nhân Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016) không cho phép địa phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật có quy định thủ tục hành chính (trừ trường hợp được giao trong luật) nhưng do sáng kiến cải cách thủ tụ c hành chính xuất phát từ địa phương nên không có Luật nào quy định; việc công bố công khai TTHC còn chưa thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định./.
Trung Hậu – Phòng CCHC
(Nguồn báo cáo số 96/BC-UBND ngày 13/7/2016 của UBND TP Cần Thơ)